“NGHỆ THUẬT LÀM GỐM CỦA NGƯỜI CHĂM” – DI SẢN VĂN HOÁ PHI VẬT THỂ CẦN BẢO VỆ KHẨN CẤP
Bạn đã từng thấy phụ nữ Chăm làm gốm chưa? Bạn có biết gốm Chăm khác với các loại gốm Bát tràng (Hà Nội), Lái Thiêu (Bình Dương), gốm Bắc Ninh, gốm Chu Đậu (Hải Dương), gốm Biên Hoà (Đồng Nai), hay các làng gốm truyền thống khắp Việt Nam khác – ở điểm nào không? Hãy cùng tìm hiểu về “Nghệ thuật làm gốm của người Chăm” – di sản văn hóa phi vật thể cần bảo vệ khẩn cấp!
Nghề làm gốm được xem là biểu hiện của sự sáng tạo cá nhân do người phụ nữ Chăm làm ra. Tri thức và kỹ năng làm gốm được trao truyền cho các thế hệ trong gia đình thông qua thực hành.
Gốm của người Chăm chủ yếu là đồ gia dụng, đồ dùng cúng lễ và đồ mỹ nghệ gồm chum (jek), nồi (gok), mâm (cambak), bình (bilaok)… Dụng cụ làm gốm đơn giản do nghệ nhân tận dụng vật liệu tại chỗ như: vòng quơ, vòng cạo (bằng tre) để cạo mỏng thân gốm, và vỏ sò, vải cuộn thấm nước để chà láng thân gốm. Thay vì sử dụng bàn xoay, người phụ nữ Chăm di chuyển giật lùi quanh khối nguyên liệu để tạo hình sản phẩm.
Gốm không tráng men và được phơi khô, nung ở ngoài trời bằng củi và rơm trong 7 đến 8 giờ ở nhiệt độ khoảng 800 độ C. Nguyên liệu chính làm nên gốm Chăm là đất sét, cát, nước, củi và rơm) được khai thác tại chỗ. Đất sét được khai thác tại cánh đồng Hamu Tanu Halan, bên bờ sông Quao thuộc làng Bàu Trúc (tỉnh Ninh Thuận) và mỏ đất làng Xuân Quang (cách làng Bình Đức, tỉnh Ninh Thuận, 3km về hướng Tây Bắc).
Việc làm nghề tạo cơ hội cho người phụ nữ Chăm giao lưu, tương tác trong lao động sản xuất, sinh hoạt xã hội, cũng như trong việc giáo dục nghề nghiệp cho con cái, nâng cao hơn nữa vai trò của họ trong xã hội. Nghề làm gốm cũng giúp tăng thu nhập của gia đình và bảo lưu thuần phong mỹ tục, bản sắc văn hóa của người Chăm ở Việt Nam.
Tuy nhiên, dù có nhiều nỗ lực bảo vệ, song nghề gốm của người Chăm vẫn đang đứng trước nguy cơ mai một vì sự tác động của quá trình đô thị hóa đến khả năng tiếp cận nguồn nguyên liệu thô, sự chậm thích ứng với kinh tế thị trường và thế hệ trẻ ít quan tâm đến nghề.
Di sản “Nghệ thuật làm gốm của người Chăm” đã được Tổ chức UNESCO thông qua và ghi danh vào Danh mục di sản văn hóa phi vật thể cần bảo vệ khẩn cấp tại Phiên họp lần thứ 17 của Ủy ban liên Chính phủ Công ước 2003, họp tại thủ đô Rabat, Vương quốc Maroc (tháng 11/2022). Đây là nghề thủ công truyền thống đầu tiên của Việt Nam được đề cử và ghi danh. Nghệ thuật làm gốm của người Chăm đáp ứng những tiêu chí để được ghi danh vào Danh sách di sản văn hóa phi vật thể cần bảo vệ khẩn cấp, vì:
– Di sản này liên quan đến nghề thủ công truyền thống làm gốm Chăm bằng tay và sử dụng các công cụ đơn giản.
– Chủ thể văn hóa và người thực hành chủ yếu là phụ nữ Chăm. Tri thức và kỹ năng làm nghề được trao truyền trong gia đình, dòng họ và cộng đồng. Việc trao truyền được thực hiện bằng biện pháp kể chuyện và thực hành hàng ngày.
– Di sản thu hút sự trao đổi và tương tác giữa những người thực hành nghề, các sinh hoạt xã hội và nâng cao vai trò của người phụ nữ Chăm trong xã hội hiện đại.
– Di sản gắn liền với nghệ thuật.
Tính đến nay, Việt Nam hiện có 15 di sản được UNESCO ghi danh vào các Danh sách (bao gồm 13 di sản văn hóa phi vật thể trong Danh sách di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại và 02 di sản văn hóa phi vật thể trong Danh sách di sản văn hóa phi vật thể cần bảo vệ khẩn cấp), phân bố ở 61/63 tỉnh, thành phố.
Ngày 20 tháng 9 năm 2005, Việt Nam chính thức tham gia và trở thành một trong 30 quốc gia đầu tiên gia nhập Công ước 2003 về bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể của UNESCO, đánh dấu sự hội nhập, xác định vai trò quốc tế của Việt Nam trên lĩnh vực di sản văn hóa phi vật thể với UNESCO và các nước trên thế giới. Cho đến nay, có 180 Quốc gia và vùng lãnh thổ phê chuẩn tham gia là thành viên của Công ước 2003.
Nguồn: Nguyễn Chí Phú (Sở Văn hoá Thể Thao – Du lịch Bình Thuận)